Chiêu Anh Các (Ngôi nhà có gác lầu dùng mời gọi những người tài năng) là nơi tụ tập những văn thi nhân để làm thơ xướng họa về những cảnh đẹp của Hà Tiên do chính Mạc Thiên Tích dùng làm đề tài cho những bài thơ. Những bài thơ chữ Hán này được ghi lại, cùng với những bài họa của các văn nhân trong thi đàn, trong tập thơ mang tên Hà Tiên Thập Vịnh viết xong năm Bính Thìn (1736) và được khắc in năm Đinh Tỵ (1737), có 320 bài thơ gồm nhiều tác giả trong đó có Mạc Thiên Tích. Ông chọn đề (như tên tựa của mười cảnh đẹp). các văn nhân (gồm một số người Hoa thuộc hai tỉnh Quảng Đông và Phước Kiến ở Trung Quốc, và một số văn gia vùng Thuận Quảng “chỉ miền thủ phủ Việt Nam”) kể cả một số quan lại của chúa Nguyễn dùng các đề tài ấy mà xướng họa.
Chiêu Anh Các để lại nhiều bài thơ, nhưng tác giả hầu hết đều thuộc người Trung Quốc và chưa sống ở Việt Nam, thơ văn lại gò bó trong việc họa vần, hạn đề nên không phản ảnh về nếp sống, tâm tư người Việt.
Chiêu Anh Các ngoài việc xướng họa thơ còn lập đền thờ Khổng Tử và lập nghĩa thục để truyền bá văn chương đạo lý.
Hà Tiên Thập Vịnh tác phẩm của Mạc Thiên Tích (Đông Hồ dịch)
1/- Kim Dự Lan Đào
Một dẫy non xanh nước bích liền.
Giăng ngang mạch đẹp sông tiên.
Đông Nam sóng biển bằng trang cả.
Trên dưới trăng trời sáng rực lên.
Rồng cá vẫy vùng trong cõi nước.
Đá cây xan xát khắp ven miền.
Nghìn thu tiếng gió quanh chân sóng.
Đậm nhạt trăng treo nét lạ nhìn.
2/- Bình San Điệp Thúy
Cây xanh ngăn ngắt vút cao cao.
Ngọn dựng bình dăng đẹp mĩ miều.
Mây sáng vây quanh hình nu1o rõ.
Đất trời bền vững nền linh tý,
Mây khói vời xa nỗi ước ao.
Danh thắng Hà Tiên đâu dám bảo.
Cây ngàn mơn mởn biết xanh gieo.
3/- Tiêu Tự Thần Chung
Lác đác trời tàn nhạt ánh sao,
Chuông chùa xa vắng tiếng đưa vào.
Mơ màng cõi tục người tiên lẫn
Đồng vọng bờ cây bến nước xao.
Hạc để tiếng vương cành gió thoảng.
Quạ đưa lời gởi ngọn trăng cao.
Gối nghiêng giấc tỉnh đêm mê mộng
Sớm giục canh gà tin khát khao.
4/- Giang Thành Dạ Cổ
Gió cuốn trời cao mây lạnh tung,
Sông dài vây tỏa khí anh hùng.
Lâu thuyền dãi bóng trăng sương lạnh,
Trống mõ cầm canh sóng nước trong.
Kim giáp đã nhờ đêm chặt chẽ
Cẩm bào cho được chốn thung dung.
Lược thao đem đáp tình minh chúa.
Nước việt biên thùy vững núi sông.
5/- Thạch Đông Thôn Vân
Xanh xanh ngọn đá chạm thiên hà
Động bích long lanh ngọc chói lòa.
Chẳng hẹn khói mây thường lẩn quất.
Không ngăn cây cỏ mặc la đà.
Phong sương càng dãi màu tươi đẹp
Nhật nguyệt chi ngừng bóng lại qua
Chót vót tinh hoa đây đã hẳn.
Theo chiều gió lộng vút cao xa.
6/- Châu Nham Lạc Lộ
Bóng rợp mây dâm phủ núi non.
Bay la bay lả trắng hoàng hôn.
Góc trời thế trận giăng cây cỏ.
Đóa ngọc hoa rơi khắp bãi cồn.
Trăng dãi non treo làn thác đổ.
Chiều tà cát lẫn ánh mây tuôn.
Trên đường bay nhảy bao xuôi ngược
Nghĩ cảnh dừng chân bến nước còn.
7/- Đông Hồ Ấn Nguyệt
Khói lạnh mây tan cõi diểu mang.
Một vùng phong cảnh giữa hồng quang.
Trời xa mặt sóng in đôi bóng.
Biển bạc vành gương dọi bốn phương.
Rỗng đã sánh cùng trời bát ngát,
Sâu còn so với biển mênh mang.
Cá rồng tỉnh giấc chi tan vỡ,
Một tấm lòng băng vẫn chói chang.
8/- Nam Phố Trừng Ba
Một vùng xanh ngát một doành khơi.
Bãi nối màu thu tiếp sắc trời.
Mưa khéo mây đem về kết tụ
Gió nào cho sóng động tăm hơi.
Biển hâng hẩng sáng triều tuôn dẫy,
Buồm nhẹ nhàng đưa khỏi thoảng trôi.
Vực thẳm cá rồng còn ẩn náo.
Êm đềm nước ngậm bóng trăng soi.
9/- Lộc Trĩ Thôn Cư
Lều tre giấc tỉnh gió lay mình,
Tiếng quạ ồn chi trước mái tranh.
Ráng xế treo ngang khung cửa tím
Cây vườn che lợp luống rau xanh
Tánh rần mộc mạc hươu nai dại
Lòng thích thơm tho nếp tẻ thanh.
Ai đó hỏi thăm nơi chốn ở.
Lưng trâu tiếng sáo lặng làm thinh.
10/- Lư Khê ngư bạc
Bóng chiều nắng ngả dòng sông thẳm,
Rạch Vược đèn ngư khói chập chùng
Bến cũ nhấp nhô thuyền đỗ sóng
Vờ xa san sát lưới phơi trăng
Cánh tơi sáo thấm sương pha buốt,
Mái trúc chèo khuya nước sáng trưng.
Lồng lộng vời trông cười thử hỏi
Cá rồng vùng vẫy chốn nầy chăng.
- Kim Dự và Bình San là hai cảnh hải đảo sơn cương. Giới thiệu địa thế vững vàng như thái sơn bàn thạch.
- Tiêu Tự và Giang Thành là hai cảnh kiến trúc qui mô, một biểu thị cho đạo đức là chùa chiền và một biểu thị cho quân sự là đồn lũy.
- Thạch Động và Châu Nham là hai cảnh sơn nham thạch cốc bí tàng phong phú, thiên bảo vật hoa.
- Đông Hồ và Nam Phố là hai cảnh hồ hải khoáng hoạt tung hoành, tự nhiệm tiêu dao trong vân thủy yên hà.
- Lộc trĩ và Lư Khê là hai cảnh sinh hoạt thôn trang nhà đủ người no, nhân dân an cư lạc nghiệp.